Phản vệ
Phản vệ

Phản vệ

icon
Translator: Phan Văn Minh Quân
icon
Update: Aug 5, 2021
Mục lục

Tham khảo nhanh

(quay lại mục lục)

#1) Epinephrine là liệu pháp quan trọng nhất

  • Chỉ định epinephrine = có một trong các dấu hiệu sau:
    • Dấu hiệu đường thở.
    • Khó thở.
    • Tuần hoàn (tụt huyết áp)
    • Tổn thương 2 hệ cơ quan (ví dụ: nôn + nổi mày đay).
  • Liều lượng:
    • Nếu tiêm bắp nhanh hơn: 0.5 mg tiêm bắp, lặp lại mỗi 5 phút cho đến liều tích lũy là 3 liều nếu cần (sau đó, nếu cần, chuyển sang truyền tĩnh mạch).
    • Nếu tiêm tĩnh mạch nhanh hơn: 👇🏻
image

#2) Hồi sức dịch

  • Có thể cần hồi sức dịch tích cực ban đầu.

#3) Albuterol

  • Có thể sử dụng trong tình huống co thắt phế quản dù đã truyền epinephrine liên tục.
  • (Không sử dụng albuterol với mục đích thay thế epinephrine).

#4) Steroid

  • Không cần thiết cho mọi bệnh nhân phản vệ, nhưng nên dùng cho những bệnh nhân phản vệ nhập ICU.
  • 10 mg dexamethasone hoặc 60 mg methylprednisolone tĩnh mạch là hợp lý.

#5) Kháng histamin

  • Là liệu pháp ít quan trọng nhất, không bao giờ vì kháng histamin mà trì hoãn các liệu pháp điều trị khác (ví dụ: epinephrine hoặc dịch tinh thể). Không cần sử dụng thường quy, nhưng kháng histamin có thể cải thiện triệu chứng mày đay.
  • Thuốc thường dùng:
    • Diphenhydramine 50 mg tĩnh mạch mỗi 6 giờ.
    • Famotidine 20 mg tĩnh mạch mỗi 12 giờ.

Chẩn đoán

Định nghĩa & Biểu hiện lâm sàng

(quay lại mục lục)

Dấu hiệu lâm sàng

  • Tim mạch:
    • Tụt huyết áp.
    • Nhịp nhanh.
    • Ngất, tiền ngất.
  • Hô hấp/Đường thở:
    • Tắc nghẽn đường thở trên (thở rít, phù lưỡi/lưỡi gà, thay đổi giọng nói).
    • Co thắt phế quản (rale rít xuất phát từ đường thở dưới khi nghe phổi).
    • Khó thở, ho.
  • Tiêu hóa (~45%): (34052784)
    • Đau quặn bụng.
    • Buồn nôn, nôn.
    • Tiêu chảy.
  • Da/niêm mạc (~90%):
    • Đỏ mặt.
    • Ngứa.
    • Nổi mày đay.
    • Phù mạch (nhạy ~80%) - có thể ở môi, mí mắt, đường thở, tay, chân, cơ quan sinh dục.
    • Viêm kết mạc, phù kết mạc, chảy nước mắt.
    • Chảy nước mũi và nghẹt mũi.
image

Thời điểm khởi phát phản vệ

  • Phản vệ do thuốc tĩnh mạch hoặc do ong chích thường khởi phát trong vòng 30 phút.
    • Khởi phát phản vệ ngay tức thì sau phơi nhiễm là một dấu hiệu tiên lượng xấu.
  • Phản vệ do thức ăn hoặc thuốc đường uống thường khởi phát trong một vài giờ.
  • Ở những bệnh nhân tử vong, thời gian từ lúc phơi nhiễm cho đến khi tử vong là: (10931122)
    • ~5 phút đối với phản vệ do tai biến y tế (ví dụ: do thuốc tiêm tĩnh mạch).
    • ~15 phút đối với phản vệ do nọc độc côn trùng.
    • ~30 phút đối với phản vệ do thức ăn.

Tiếp cận chẩn đoán: Các “mảnh ghép” chính cần xem xét

  • [1] Tiền sử phơi nhiễm và tính chất mạn tính:
    • Tiếp xúc với tác nhân đã biết làm tăng nghi ngờ chẩn đoán.
    • Một số bệnh nhân bị phản vệ tự phát, vì vậy không có tác nhân không thể loại trừ phản vệ.
  • [2] Số lượng cơ quan tổn thương:
    • Tổn thương 2 hệ cơ quan gợi ý mạnh mẽ chẩn đoán.
    • Chẩn đoán phản vệ có thể dựa trên một cơ quan duy nhất, trong bối cảnh lâm sàng nghi ngờ cao.
  • [3] Chẩn đoán phân biệt (khi còn lưỡng lự, nên điều trị phản vệ theo kinh nghiệm trong khi vẫn tiếp tục thăm dò các nguyên nhân khác).

Nguyên nhân

(quay lại mục lục)

  • Thức ăn, đặc biệt là:
    • Đậu phộng.
    • Hải sản.
  • Côn trùng (ví dụ: ong).
  • Thuốc, đặc biệt là:
    • Kháng sinh (đặc biệt là penicillin & cephalosporins thế hệ 1).
    • NSAIDs, aspirin. (*)
    • Kháng thể đơn dòng (ví dụ: kháng thể anti-TNF).
    • Thuốc cản quang. (*)
    • Thuốc giãn cơ.
    • Protamine.
    • Thuốc gây tê tại chỗ (ví dụ: lidocaine, benzocaine, mepivacaine).
  • Các chế phẩm máu ở một người thiếu hụt IgA.
  • Tập thể dục, lạnh, hoặc tiếp xúc nhiệt.

(*) Phản ứng với NSAIDs, aspirin, hoặc thuốc cản quang về mặt lý thuyết là một phản ứng giả phản vệ, không phải phản vệ thực thụ. Tuy vậy cả 2 rối loạn này đều được điều trị giống nhau.

Chẩn đoán phân biệt

(quay lại mục lục)

  • Hen phế quản:
    • Cơn hen cấp nặng là một yếu tố nguy cơ của phản vệ.
    • Khò khè và khó thở có thể được cho là do hen phế quản.
  • Phù mạch do tích tụ bradykinin.
  • Hội chứng bệnh tế bào mast hệ thống.
  • Hội chứng đỏ da do vancomycin.
  • Scombroidosis (”cá histamin”)
  • Tắc nghẽn đường thở trên do mọi nguyên nhân (ví dụ: rối loạn chức năng dây thanh âm, viêm nắp thanh quản, áp-xe chèn ép đường thở).
  • Nguy kịch hô hấp cấp (ví dụ: thuyên tắc phổi, tràn khí màng phổi).
  • Nhiễm khuẩn huyết, hội chứng sốc nhiễm độc.

Thăm dò nguyên nhân

(quay lại mục lục)

Các xét nghiệm đánh giá phản vệ

  • Không có một xét nghiệm nào giúp chẩn đoán phản vệ ngay tức thì.
  • Nồng độ tryptase sẽ không được phản hồi nhanh, nhưng có thể giúp làm rõ liệu bệnh nhân có phản vệ không.

Đánh giá các chẩn đoán phân biệt

  • Dựa vào biểu hiện lâm sàng, có thể cần đánh giá các chẩn đoán khác.
  • Ví dụ lâm sàng: Một bệnh nhân biểu hiện sốc giãn mạch và nổi mày đay. Phản vệ là chẩn đoán được đưa lên hàng đầu, nhưng vẫn có lo ngại về sốc nhiễm khuẩn. Bệnh nhân được điều trị theo kinh nghiệm cả hai tình trạng (với epinephrine truyền tĩnh mạch, steroid, kháng histamin và kháng sinh). Các xét nghiệm về bilan nhiễm trùng được thực hiện bao gồm X-quang ngực, procalcitonin và cấy máu. Kết quả trả về không có nhiễm khuẩn, vì thế kháng sinh được ngưng - lúc này chẩn đoán lâm sàng là sốc phản vệ.

Phản vệ vs. Phù mạch do bradykinin

(quay lại mục lục)

Các đặc điểm lâm sàng của phù mạch do histamin vs. phù mạch do bradykinin

Phù mạch do dị ứng (histamin)
Phù mạch không do dị ứng (bradykinin)
Yếu tố khởi kích?
- Yếu tố gây dị ứng (thuốc, thức ăn, côn trùng,…).
- Thuốc ACEi/ARB. - Có thể bị khởi kích bởi chấn thương nhỏ.
Phân bố
- Lan tỏa, đối xứng. - Thường gặp hơn ở môi và mắt. (mí mắt 4%, môi 30%, lưỡi 33%, thanh quản 3%, chi 11%)
- Thường khu trú/không đối xứng. - Thường gặp chủ yếu ở lưỡi. (mí mắt 2%, môi 24%, lưỡi 42%, thanh quản 17%, chi 4%)
Tốc độ khởi phát
Nhanh (có thể tiến triển trong vài phút)
Chậm hơn (tiến triển từ từ trong nhiều giờ)
Các triệu chứng da liên quan
Nổi mày đay, đỏ da, ngứa toàn thân. (hồng ban hoặc ngứa 53%)
- Không nổi mày đay hoặc ngứa. - Phù mạch di truyền có thể gây “erythma marginatum” (các vòng đỏ da trên thân mình không gây ngứa). (hồng ban hoặc ngứa 1%)
Các cơ quan khác
Có thể xảy ra trong bối cảnh phản vệ với sự tham gia của các cơ quan khác (vd: tụt huyết áp, khò khè, buồn nôn/nôn, tiêu chảy).
Thường không có sự tham gia của cơ quan khác, mặc dù có thể có biểu hiện đường ruột (đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy).
Đáp ứng với điều trị
Đáp ứng với epinephrine, kháng histamin, và steroid.
Không đáp ứng với epinephrine, kháng histamin, và steroid. (mặc dù 2-10% trường hợp dường như cải thiện)

Cách tiếp cận để phân loại nguyên nhân gây phù mạch

  • Phân biệt rõ ràng nguyên nhân gây phù mạch là rất quan trọng (vì điều trị hoàn toàn khác biệt).
  • Phản vệ có cơ chế gây phù mạch qua trung gian histamin, vì thế gần như sẽ luôn đáp ứng nhanh chóng với điều trị tích cực (epinephrine, kháng histamin, và steroid). Ngược lại, phù mạch qua trung gian bradykinin sẽ không đáp ứng với khác điều trị này (và có xu hướng tiến triển chậm, trong một vài giờ). Vì vậy, có thể thử điều trị ngay phản vệ như một cách chẩn đoán/điều trị để phân biệt giữa phù mạch do histamin và phù mạch do bradykinin. (29721614)
image

Điều trị

Kiểm soát nguyên nhân

(quay lại mục lục)

  • Phải dừng bất kỳ tác nhân tiềm tàng nào (ví dụ: thuốc tĩnh mạch hoặc chế phẩm máu).
  • Cân nhắc đặt garo gần vị trí vết chích hoặc chỗ xâm nhập của kháng nguyên (ví dụ: chỗ gây tê cục bộ) cho đến khi bệnh nhân ổn định.

Các thành tố của liệu pháp điều trị

Epinephrine

(quay lại mục lục)

Chỉ định epinephrine = bất kỳ dấu hiệu nào sau đây:

  • A = Triệu chứng đường thở
  • B = Khó thở
  • C = Tuần hoàn (tụt huyết áp)
  • Tổn thương bất kỳ 2 hệ cơ quan (ví dụ: buồn nôn/nôn + nổi mày đay).

Epinephrine tiêm bắp

  • Theo truyền thống, epinephrine tiêm bắp sẽ hữu ích trong hầu hết tình huống.
  • Khởi đầu với 0.5 mg tiếp bắp ở giữa mặt trước ngoài đùi (33895231). Nếu chưa cải thiện, bổ sung thêm 1 hoặc 2 liều 0.5 mg mỗi 5 phút (33895231). Nếu 3 liều không hiệu quả, xem xét truyền epinephrine tĩnh mạch (33895231).
  • Nếu triệu chứng tái phát, xem xét lặp lại liều hoặc khởi đầu epinephrine tĩnh mạch.

Sinh lý của epinephrine trong phản vệ

  • Tác dụng của epinephrine:
    • Ổn định huyết động (co mạch, cường tim, tăng tần số tim).
    • Ổn định tế bào mast (ngăn ngừa phóng thích chất trung gian).
    • Giảm phù nề đường thở.
    • Giãn phế quản (thông qua receptor beta-2).
  • Các điểm quan trọng:
    • (1) Epinephrine có nhiều hiệu ứng có lợi lên phản vệ (ngoài vai trò trên huyết động). Ngay cả khi huyết động bệnh nhân ổn định, epinephrine vẫn là liệu pháp cứu mạng.
    • (2) Epinephrine là thuốc duy nhất có khả năng thay đổi bệnh đối với phản vệ cấp tính. Ví dụ, kháng histamine có thể khiến bệnh nhân đỡ ngứa nhưng không đóng góp quá nhiều.

Truyền epinephrine tĩnh mạch

  • Epinephrine tĩnh mạch có thể hữu ích trong bối cảnh nhân viên y tế thông thạo việc sử dụng epinephrine đường tĩnh mạch (đặc biệt là tại ICU và phòng mổ, nơi mà epinephrine thường được sử dụng qua đường tĩnh mạch nhất).
  • Sử dụng epinephrine qua đường tĩnh mạch ngoại vi là an toàn, vì thế không cần thiết phải đặt catheter tĩnh mạch trung tâm và việc này cũng không được khuyến cáo.

Lợi thế của epinephrine truyền tĩnh mạch

  • Khởi phát tác dụng nhanh hơn (nếu bệnh nhân đã được đặt “vein” và epinephrine có sẵn, đây là cách nhanh nhất để đưa thuốc vào tuần hoàn).
  • Giảm liều dễ dàng hơn - có thể cai thuốc dần có kiểm soát.
  • Có thể tạm ngưng epinephrine khi có vấn đề (ví dụ: tăng huyết áp). Điều này khác với epinephrine tiêm bắp, khi mà không thể ngưng epinephrine ngay lập tức.
  • Những bệnh nhân đã rơi vào tình trạng sốc có thể không tưới máu mô cơ tốt, vì thế làm giảm khả năng hấp thu epinephrine qua đường tiêm bắp.

Liều lượng epinephrine tĩnh mạch trong phản vệ

  • Cách sử dụng epinephrine tĩnh mạch trong phản vệ được trình bày trong lưu đồ dưới.
image

“Dirty Epi Drip”

  • Nếu túi hòa sẵn epinephrine không có sẵn, ta có thể “chế tạo” như sau:
    • Tiêm 10 ml xi-lanh epinephrine (1:10,000) vào 1 lít nước muối sinh lý hoặc Ringer lactate (hoặc 1 ml ống epinephrine 1:1,000 - chế phẩm nào cũng dùng được ở đây, vì cả 2 loại chế phẩm đều chứa 1 mg epinephrine). Việc này sẽ tạo ra dung dịch chứa epinephrine 1 mcg/ml.
  • Chuẩn độ tốc độ truyền:
    • 2 mcg/ph = 120 ml/h.
    • 5 mcg/ph = 300 ml/h.
    • 10 mcg/ph = 600 ml/h.
    • 16 mcg/ph = 960 ml/h.
  • Liều đẩy (push) của epinephrine:
    • 20 mcg = 20 ml bolus (sử dụng xi-lanh 20 ml).
  • 💡 Hòa loãng epinephrine trong 1 lít nước muối sẽ không dễ gì gây chết người nếu truyền nhanh. Ngay cả khi dung dịch này được xả tự do, nó sẽ tạo nên tốc độ truyền ~20-30 mcg/ph - sẽ không nguy hiểm khi được theo dõi sát và có thể là liều thích hợp trong những phút đầu tiên.

Hồi sức dịch

(quay lại mục lục)

  • Có thể cần hồi sức dịch tinh thể lượng lớn để ổn định huyết động (ví dụ: một vài lít dịch Ringer lactate).
  • Hồi sức dịch tích cực đặc biệt quan trọng đối với:
    • Những bệnh nhân cần liều cao epinephrine để ổn định huyết động.
    • Những bệnh nhân chuẩn bị được đặt nội khí quản.
  • Sử dụng siêu âm tại giường để hướng dẫn hồi sức dịch (nếu được).

Kháng histamin

(quay lại mục lục)

  • Thuốc kháng histamine dường như không cải thiện tình trạng hô hấp hay tim mạch, cũng như không cải thiện sống còn (33895231).
  • Kháng histamine có thể làm giảm đỏ da và ngứa.
  • Không bao giờ để kháng histamine trì hoãn các can thiệp quan trọng khác (ví dụ: epinephrine và hồi sức dịch). Ngoài ra, không nên hiểu sai việc sử dụng thuốc kháng histamine đơn độc như là liệu pháp đầy đủ cho phản vệ.

Steroid

(quay lại mục lục)

  • Vai trò tiềm năng chính của steroid là làm giảm đáp ứng viêm pha muộn (ví dụ: tái phát hoặc phản ứng 2 pha). Tuy nhiên, không có bằng chứng mạnh mẽ cho thấy steroids hoàn thành được nhiệm vụ này.
  • Một số Guideline không khuyến cáo sử dụng steroids thường quy (33895231). Tuy nhiên, việc này lại dựa trên dữ liệu tương quan hồi cứu, có thể gây nhiễu.
  • Các tình huống mà steroids có thể có lợi:
    • Phản vệ đề kháng với 2 liều epinephrine tiêm bắp (hầu hết bệnh nhân nhập ICU sẽ thỏa tiêu chuẩn này).
    • Phản vệ trong bối cảnh hen phế quản (có thể khó khăn trong việc phân biệt giữa 2 tình trạng).
  • Nếu sử dụng steroid, không cần liệu pháp steroid dài hạn. Cách tiếp cận hợp lí là sử dụng một liều duy nhất 10 mg dexamethasone, có tính chất tự cai (auto-taper) dần dần trong một vài ngày (không cần phải áp dụng bất kỳ cách cai steroid nào).

Đồng vận beta-2 dạng hít

(quay lại mục lục)

  • Đối với những bệnh nhân có triệu chứng hô hấp kéo dài, epinephrine là lựa chọn hàng đầu. Không nên sử dụng thuốc đồng vận beta-2 khí dung đơn độc như một liệu pháp thay thế cho epinephrine (33895231).
  • Thuốc đồng vận beta-2 khí dung có thể hữu ích khi đóng vai trò là một liệu pháp hỗ trợ cho những bệnh nhân đang sử dụng epinephrine và vẫn còn co thắt phế quản.

Phản vệ ở bệnh nhân đang sử dụng thuốc chẹn beta

(quay lại mục lục)

Khởi đầu bằng liệu pháp tiêu chuẩn được trình bày ở trên.

  • Epinephrine vẫn là thuốc hàng đầu.
  • Đối với hầu hết bệnh nhân đang sử dụng thuốc chẹn beta, epinephrine vẫn hoạt động tốt.
  • 🔑 Khái niệm quan trọng - Các chiến lược điều trị phản vệ thông thường vẫn hiệu quả ở những bệnh nhân đang sử dụng thuốc chẹn beta. Vì vậy, đừng quá cầu kỳ - hãy tập trung vào những điều cơ bản.

Nếu bệnh nhân không đáp ứng đầy đủ với điều trị tiêu chuẩn (và đặc biệt nếu có nhịp chậm), hãy thử:

  • Glucagon
    • Khởi đầu với 1-5 mg tiêm tĩnh mạch trong 5 phút.
    • Nếu đáp ứng, có thể truyền liên tục với tốc độ 0.3-0.9 mg/giờ.
    • Điều này thường gây nôn mửa, vì vậy hãy thận trọng nếu khả năng bảo vệ đường thở của bệnh nhân mong manh.
  • Truyền liên tục Isoproterenol (2-10 mcg/ph) nếu có:
    • Isoproterenol là một thuốc đồng vận beta đơn thuần.

Kiểm soát đường thở

(quay lại mục lục)

Epinerphrine racemic & Heli

  • Khí dung epinephrine racemic có thể tạm thời ổn định bệnh nhân trong khi chuẩn bị đặt NKQ.
  • Có thể xem xét thở khí heli như một phương pháp câu giờ để ổn định bệnh nhân đầy đủ giúp chuẩn bị dụng cụ và bệnh nhân trước đặt NKQ.

Chỉ định của đặt NKQ

  • Chỉ định chính xác là chưa rõ ràng. Không thể có được các bằng chứng chất lượng cao, vì những lý do sau:
    • (#1) Không thể “làm mù” (blind) các bác sĩ trước các triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân khi đưa ra quyết định đặt NKQ.
    • (#2) “Đặt NKQ” thường được sử dụng như một biến kết cục, nhưng đôi khi đây đơn giản chỉ là một thành tố trong quy trình hướng dẫn đưa ra quyết định mà các bác sĩ sử dụng để xác định bệnh nhân nào cần đặt NKQ.
    • (#3) Để thực sự xác định bệnh nhân có chỉ định đặt NKQ tuyệt đối, ta cần phân loại ngẫu nhiên bệnh nhân, và chúng ta sẽ đứng nhìn một số bệnh nhân chết mà không bao giờ đặt NKQ - và dĩ nhiên điều này là không thể.
  • Các chỉ định tiềm năng của nội khí quản bao gồm:
    • (1) Thở rít, khó thở - đặc biệt nếu triệu chứng nặng lên và không đáp ứng với điều trị.
    • (2) Không thể tự giải quyết chất tiết (đàm giải).
    • (3) Phù tiến triển nặng dần (có thể khiến việc đặt NKQ trở nên khó khăn theo thời gian).
    • (4) Nội soi mũi họng cho thấy phù thanh môn đáng kể hoặc sắp đóng vùng hầu sau. Khi còn lưỡng lự, nội soi mũi họng có thể giúp xác định xem đã phù thanh môn đáng kể hay chưa. Mối đe dọa thực sự đối với đường thở là thanh quản và lưỡi sau - chứ không phải là môi và lưỡi trước.

Đặt NKQ tiềm ẩn nhiều nguy hiểm

  • Kiểm soát đường thở có thể làm nặng thêm tình trạng phù nề.
  • Phù thanh quản làm cản trở sử dụng mask thanh quản.
  • Trong những trường hợp phù mạch nặng, có thể không đặt được NKQ qua đường miệng.
  • Có nguy cơ cao suy sụp huyết động sau đặt NKQ: khởi đầu epinephrine và bù dịch trước.

Tình huống #1: bệnh nhân phản vệ nguy kịch (cực kỳ hiếm)

  • Mô tả
    • Bệnh nhân có nguy cơ mất khả năng bảo vệ đường thở ngay lập tức.
    • Bệnh nhân nặng nhọc, ngồi thẳng, thở khó khăn.
    • Bệnh nhân không thể nằm ngửa.
  • Cách kiểm soát: mở màng nhẫn giáp với ketamine liều phân ly.
    • Cung cấp oxy với FiO2 100% bằng một trong các cách sau:
      • i) HFNC với FiO2 100% và lưu lượng 60 L/ph.
      • ii) Thở máy không xâm nhập mode BiPAP.
      • iii) Mask không thở lại 100%, cài đặt tốc độ vượt mức (điều chỉnh tốc độ dòng vượt mốc 15 L/ph).
      • iv) Mask không thở lại 100% với cài đặt 15 L/ph + cannula mũi bên dưới với tốc độ 15 L/ph.
    • Sử dụng ketamine liều phân ly (1.5-2 mg/kg) truyền chậm trong ~120 giây. Điều này sẽ “phân ly” hoàn toàn bệnh nhân mà không gây suy giảm cường độ điều biến từ trung tâm hô hấp. Những bệnh nhân có tiền sử nghiện rượu có thể cần nhiều ketamine hơn để “phân ly” hoàn toàn.
    • Thực hiện mở màng nhẫn giáp bằng kỹ thuật dao - ngón tay -bougie. Bệnh nhân tiếp tục được hỗ trợ hô hấp trong toàn bộ quá trình, vì vậy bạn có thể có một ít thời gian dư dả cho việc này. Tuy nhiên, nếu xảy ra ngạt, cần thực hiện quy trình thật nhanh.

Tình huống #2: bệnh nhân phản vệ không nguy kịch

  • Mô tả
    • Bệnh nhân cần đặt NKQ, nhưng không nguy kịch.
    • Có thời gian để gọi hỗ trợ và chuẩn bị thêm dụng cụ.
  • Cách kiểm soát đề xuất: “awake double setup”
    • Cần một người đặt NKQ có kinh nghiệm và một ai đó thành thạo cách mở màng nhẫn giáp bằng dao - ngón tay - bougie (Lưu ý: không quan trọng người này có phải phẫu thuật viên hay không, điều quan trọng là kỹ năng cho thủ thuật này).
    • Đặt NKQ bằng ống soi mềm ở bệnh nhân tỉnh táo. Những bệnh nhân này thường phù lưỡi, vì vậy cách tiếp cận tốt nhất thường là đặt NKQ đường mũi (đối với bệnh nhân cao hơn, xem xét sử dụng ống NKQ dài hơn).
    • Trong quá trình đặt NKQ, người thứ 2 cần chuẩn bị sẵn sàng để thực hiện mở màng nhẫn giáp nếu mất bảo vệ đường thở.

Giai đoạn hồi phục & Rút NKQ

(quay lại mục lục)

Cai dần epinephrine

  • Một nhược điểm của sử dụng epinephrine là nó có xu hướng tồn tại mãi.
  • Cần nỗ lực tích cực cai epinephrine, lý tưởng là trong vòng một vài giờ sau nhập viện.
  • Theo dõi bệnh nhân cẩn thận sau khi ngưng epinephrine, và truyền lại nếu triệu chứng tái phát.

Steroid

  • Sử dụng kéo dài là không cần thiết (ví dụ: có thể ngưng trong vòng 2 ngày).
  • Nếu sử dụng dexamethasone ban đầu, không cần sử dụng thêm steroid.

Rút NKQ

  • Nhìn chung có thể rút ống nhanh chóng một cách thích hợp (ví dụ: sau <24 giờ). Yếu tố quyết định sẵn sàng rút NKQ là xác nhận trực quan rằng tình trạng phù nề đường thở đã cải thiện - chứ không phải bất kỳ khoảng thời gian tùy tiện nào (30480175).
  • Đánh giá tính toàn vẹn đường thở:
    • Chờ đợi phù nề bên ngoài thuyên giảm (nếu có phù nề quan sát được).
    • Khi đã an thần sâu, nhẹ nhàng đưa lưỡi đèn soi thanh quản bằng video vào (ví dụ: lưỡi glidescope hoặc lưỡi C-MAC D). Điều này cho phép quan sát trực tiếp đường thở, bao gồm cả nắp thanh quản.
    • Xả cuff có thể cung cấp thêm thông tin.
  • Khi còn lưỡng lự, xem xét rút nội quản thông qua một catheter trao đổi.
    • Tạm thời để lại catheter trao đổi để đảm bảo đường thở được toàn vẹn.
    • Nếu thở rít xuất hiện, có thể đặt lại NKQ ngay thông qua catheter trao đổi.

Xuất viện

(quay lại mục lục)

Thời gian theo dõi tại viện

  • Phản ứng tái phát (pha 2) có thể xảy ra, nhưng hiếm và có xu hướng ít nặng nề.
  • Có rất ít bằng chứng ủng hộ bất cứ khoảng thời gian theo dõi cụ thể nào trước xuất viện.
  • “UK Anaphylaxis Working Group” khuyến cáo như sau: (33895231)
image

Hướng dẫn xuất viện

  • (1) Cần chỉ định EpiPen và hướng dẫn bệnh nhân cách sử dụng.
  • (2) Tránh tác nhân gây phản vệ.
  • (3) Nên hướng dẫn bệnh nhân quay lại bệnh viện nếu phải ứng tái phát xuất hiện.
  • (4) Nhiều bệnh nhân được xuất viện kèm một liệu trình steroids ngắn (ví dụ: 1-2 ngày).

Các sai lầm cần tránh

(quay lại mục lục)

  • Không chẩn đoán được phản vệ (đây có thể là một chẩn đoán rất thách thức, do có nhiều cơ quan tham gia).
  • Trì hoãn điều trị.
  • Sử dụng epinephrine không đầy đủ.
  • Cố gắng đặt NKQ mà không chuẩn bị đầy đủ.

Tài liệu tham khảo

  • 10931122 Pumphrey RS. Lessons for management of anaphylaxis from a study of fatal reactions. Clin Exp Allergy. 2000 Aug;30(8):1144-50. doi: 10.1046/j.1365-2222.2000.00864.x [PubMed]
  • 29721614 Lenschow M, Bas M, Johnson F, Wirth M, Strassen U. A score for the differential diagnosis of bradykinin- and histamine-induced head and neck swellings. Eur Arch Otorhinolaryngol. 2018 Jul;275(7):1767-1773. doi: 10.1007/s00405-018-4989-1 [PubMed]
  • 30480175 Floyd E, Goldstein NA, Joks R, Mascaro M, Liaw C, Dickson B, Varughese D, Silverman J. An Extubation Protocol for Angioedema. OTO Open. 2017 Feb 3;1(1):2473974X17691230. doi: 10.1177/2473974X17691230 [PubMed]
  • 33895231 Dodd A, Hughes A, Sargant N, Whyte AF, Soar J, Turner PJ. Evidence update for the treatment of anaphylaxis. Resuscitation. 2021 Apr 23;163:86-96. doi: 10.1016/j.resuscitation.2021.04.010 [PubMed]
  • 34052784 Long B, Gottlieb M. Emergency medicine updates: Anaphylaxis. Am J Emerg Med. 2021 May 7;49:35-39. doi: 10.1016/j.ajem.2021.05.006 [PubMed]